Thanh Bảo Kiếm Champa

Thanh Bảo Kiếm Champa
By Đặng Chánh Anh

Ngược dòng lịch sử Champa từ ngày lập quốc vào cuối thế kỷ thứ hai hay nói một cách chính xác hơn là vào năm 192 sau công nguyên cho đến năm 1832 là năm Champa mất nước, xóa hẳn trên bản đồ Ðông – Dương. Một thời oanh liệt đã qua đi, nay chỉ còn lại những tháp cổ điêu tàn, đổ nát nằm rải rác khắp miền Trung, Việt nam ngày nay. Biết bao nhiêu di sản của tiền nhân bị mất mát … nhưng, không ngờ tự nhiên khiến có người đem đến trao cho tôi một thanh bảo kiếm và đã làm cho tôi sửng sốt. Thanh bảo kiếm này ở với tôi tròn 31 năm nay, trải qua bao thăng trầm trên đường hoạn lộ, được may mắn lưu lạc qua đất tạm dung này với chúng tôi.
Câu chuyện bắt đầu vào khoảng năm 1970-1975 là thời gian tôi đang phục vụ tại quận Phan Lý Chàm, một quận trong đó 95 phần trăm là dân tộc thiểu số. Nay Cộng sản Việt Nam đã xóa mất tên quận. Lúc bấy giờ anh Huỳnh Trọng Phú, nhân viên thư ký hành chánh quận, cư ngụ tại Phan Thiết, Bình Thuận, phục vụ tại quận Phan Lý Chàm. Anh thường xuyên đi công tác hoặc về thăm gia đình ở Phan Thiết. Vào năm 1970 vì cư ngụ lâu năm ở tỉnh cho nên quen biết nhiều bạn bè trong đó có một ông sĩ quan Việt Nam đã hồi hưu và đang cư ngụ tại Phan Thiết. Ông này đã từng phục vụ trong quân đội Pháp và trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Vị Sĩ quan hồi hưu này đến tìm gặp anh Huỳnh Trọng Phú vì ông ấy đã biết roõ ràng sự quan hệ giữa ông Phú và tôi. OÂng ấy nói với ông Huỳnh Trọng Phú:
-Tôi muốn tìm một người có danh phận và uy tín để xin trao lại thanh bảo kiếm mà tôi đã lấy trước đây trong những cuộc hành quân ở miền Trung. Vì có chuyện huyền bí của thanh bảo kiếm làm tôi không thể nào tiếp tục giữ nó nữa. Suốt thời gian tôi còn giữ thanh bảo kiếm có lần tôi nằm mơ thấy: Một ông lão đầu tóc bạc phơ, tay cầm gậy đến khuyên tôi rằng: “Này con, ta biết con đang giữ một thanh bảo kiếm. Bảo kiếm này là bảo vật do tổ tiên của người Chiêm Thành để lại, con hãy tìm đến một người Chiêm Thành nào có tư cách và được dân kính mến để trao cho họ. Còn nữa, ta nhắc cho con rằng: Ngày nào con còn giữ nó là ngày đó con và gia đình seõ không có chuyện lành đâu”. Rồi ông lão liền biến mất. Khi thức giấc. OÂng ấy thấy toàn thân mình như ướt đẫm mồ hôi vì quá sợ hãi về những lời nói vừa rồi của ông lão trong giấc mơ. Quả thật vậy, trong những chuỗi ngày sau đó bỗng liên tiếp dồn dập những chuyện không may xảy đến với gia đình vị sĩ quan này. OÂng nói tiếp: “Ðiển hình là tết Mậu Thân tại Huế, tôi bị thương rất nặng rồi sau đó giải nguõ. Còn gia đình, một đứa con gái vừa qua đời, đứa cháu đang bị bệnh. Và còn biết bao nhiêu chuyện xẩy ra nữa. Càng ngẫm nghĩ lại những gì xẩy ra trong giấc mơ tôi càng thấy khiếp sợ và vội vàng tìm đến ông. Tôi hy vọng ông có thể sắp xếp để cho tôi gặp cấp trên của ông càng sớm càng tốt, vì theo tôi được biết quận trưởng của quận Phan Lý Chàm là người Chiêm Thành và tôi đã được nghe về ông ấy.

Do có sự sắp xếp giữa anh Phú và ông sĩ quan này, một hôm nhân ngày tôi vào họp trong tỉnh, đúng ra thì tôi chỉ họp một ngày, chiều phải về lại quận. Ðặc biệt lần này vì tôi phải đi công tác hai xã Sông Trao và Ma Lâm Chàm nên tôi ngủ lại đêm ở Phan Thiết để sáng mai đi công tác hai xã nói trên. Ðêm đó vị sĩ quan hồi hưu đến gặp tôi, ông ấy cuõng thành thật trình bày đúng với lời kể trên và yêu cầu tôi nhận thanh bảo kiếm này. Sau khi nghe xong, tôi cảm thấy sửng sốt và lưỡng lự có nên nhận hay không và tôi cuõng nghĩ là chuyện hoang đường khó tin, giống như những chuyện thần thoại trong những bộ phim kiếm hiệp Hồng Kông vậy. Rồi nghĩ đến mình có xứng đáng nhận hay không? Nếu nhận về nó có mang tai họa gì cho gia đình tôi và dân trong quận hay không? Nếu như có chuyện không may xảy ra trong địa phương quận thì tôi biết ăn nói sao với dân đây? Ðầu óc tôi rối như tơ vò. Tôi liền hít một hơi thật sâu và thở nhẹ để lấy lại bình tĩnh rồi lấy khăn tay trong túi ra lao nhanh những giọt mồ hôi ướt đẫm trên trán và từ tốn trả lời:

– Thật quí hóa vô cùng, bảo vật lưu lạc lâu năm nay đã thật sự trở về với nguồn gốc của nó. Tôi rất lấy làm vinh hạnh và xin thay mặt cho địa phương tôi có lời cảm tạ ông đã tin tưởng và gửi gấm nơi tôi, nhưng rất tiếc tôi còn bận công vụ chưa biết giờ giấc về. Hơn nữa tôi cần phải hỏi ý kiến của ông già tôi xem sao vì việc này có liên hệ tới phong tục tập quán dân tộc như thế nào.
Từ dạo đó, vì tình hình địa phương mất an ninh cho nên tôi không có dịp nào để gặp ông ấy nữa.

Một năm trôi qua nhân dịp anh Phú và Trung sĩ Nguyễn Thành Long, hạ sĩ quan tiếp liệu nhân dân tự vệ, cùng công tác ở Phan Thiết, vị sĩ quan hồi hưu này lại đến gặp hai anh này và thành khẩn yêu cầu hai ông này đem thanh kiếm về cho tôi. Hai ông này vì không cầm được những lời van xin tha thiết nên đã nhận. Trên đường về đến Vườn Xoài OÂng Cha (nay đã làm sân vận động của xã Chợ Lầu) hai ông tưởng xe đã đến quận rồi nên vội vã bảo xe ngừng và đi bộ về nhà. Trong lúc băng qua đường bất cẩn bị xe hàng từ Nha Trang chạy vô đụng. Một trong hai người bị thương nặng, xe thì bỏ chạy thoát. Người bị thương là Trung sĩ Nguyễn Thành Long, còn bảo kiếm bị văng mất trong vườn xoài. Anh Phú hoảng hồn vì thấy thanh bảo kiếm đã mất. Anh liền chạy về báo cho tôi biết. Khi anh Phú đến nhà, sắc mặt hoảng hốt như người mất hồn, trên môi lập bập vài câu mà tôi không hiểu gì cả. Tôi mới hỏi lại, anh hãy kể roõ ràng cho tôi biết việc gì đã xẩy ra mà làm cho anh ấp úng như vậy. Anh Phú ngập ngừng một lát lấy lại bình tĩnh đáp:
Thưa Ðại Uứy, chúng tôi xin lỗi vì chúng tôi đã tự ý nhận thanh kiếm mà Ðại úy đã biết. Trên đường về chúng tôi đã bị tai nạn tại vườn ông cha. Thanh kiếm hiện giờ đã bị mất và Trung sĩ Long đang bị thương nặng.
Nghe xong tôi hơi nổi cơn giận vì hai người đã nhận thanh kiếm mà không cho tôi biết trước. Hơn nữa vì chuyện huyền bí của bảo kiếm qua lời kể của người trao kiếm đã làm cho tôi lo âu. Tôi thét to lên: “Các anh hại tôi rồi”. Giận thì giận thiệt, nhưng biết làm gì bây giờ vì việc đã xẩy ra rồi. Dù sao đi nữa tôi cần phải cứu mạng người hơn là việc tìm lại thanh bảo kiếm. Tôi lập tức gọi gấp trực thăng để kịp thời cấp cứu Trung sĩ Long về bệnh viện Ðoàn Mạnh Hoạch Phan Thiết.

Sáng hôm sau, tôi bảo ông Phú và vài nghĩa quân đi tìm lại bảo kiếm, nhưng họ tìm không thấy. Tôi liền đến nơi ấy và hỏi anh Phú về nơi xảy ra tai nạn để nhận định hướng mất kiếm. Tôi tìm mãi không thấy, vì quá mệt mỏi tôi bèn lại gốc cây xoài ngồi nghỉ một lát rồi mới tiếp tục kiếm nhưng không ngờ vừa ngồi xuống tôi đưa tay nắm vào những chùm cỏ nơi gốc xoài, tôi không ngờ tôi vừa nhìn vào gốc xoài tôi thấy thanh kiếm đang nằm gọn trong đó. Tôi rất mừng và sung sướng, liền đem thanh bảo kiếm về treo một nơi trang trọng trong quận.

Rồi đến năm 1975, khi cộng sản từ miền Bắc đang xâm chiếm dần miền Nam. Tình hình lúc bấy giờ rối ren, các cơ quan và quân nguõ tan rã. Tôi đem bảo kiếm về nhà dấu. Ngày 18 tháng 4 năm 1975 tôi bị bắt đi tù và những tài sản của tôi bị tịch thu hết. Họ vơ vét không chừa một món gì cả. Nhưng lạ thay! Không hiểu sao họ không tìm thấy thanh bảo kiếm. Ðến khi ra tù tôi trở về tìm lại thanh bảo kiếm thì thấy nó vẫn còn nguyên chỗ cuõ mà tôi dấu. Tôi vô cùng mừng rỡ vì nghĩ rằng không bao giờ thấy nó nữa.
Tôi và gia đình được phép qua Mỹ theo diện H.O. Tôi định đem bảo kiếm theo nhưng không dám nên tôi lấy làm nuối tiếc vì tôi nghĩ quãng đời còn lại tôi không còn có cơ hội gần guõi nó nữa. Tôi thường van vái Tổ tiên ông bà và mơ ước seõ có một ngày nào đó nó đến bên cạnh tôi. Suốt bảy năm tại Mỹ tôi thường nghĩ tới nó. Tôi không ngờ ước mơ của tôi bỗng nhiên trở thành sự thật. Nhân dịp các con của tôi về VN thăm gia đình; các con tôi biết tôi rất yêu thích thanh bảo kiếm đó nên bằng mọi cách chúng đã cố đem qua cho được. Nghĩ cuõng thật kỳ diệu vì thanh bảo kiếm đã qua được bao nhiêu là trạm kiểm soát và các máy kiểm tra của phi trường Tân Sơn Nhất và cuối cùng nó cuõng đã trở lại với tôi.

Câu chuyện này xẩy ra có thật, tuy nó có vẻ đượm nhiều sắc thái huyền bí, song nó mang đến cho chúng tôi những chứng tích có liên hệ đến sự kiện lịch sử văn hóa có ý nghĩa đối với dân tộc Champa. Bảo kiếm này bao lần tưởng chừng như đã mất đi nhưng nó vẫn còn. Tìm thấy những gì còn lại sau khi đã mất thể hiện qua câu chuyện huyền bí có thật này. Trong tương lai còn bao nhiêu những thanh kiếm hay những bảo vật quí giá khác nữa mà tổ tiên chúng ta đã để lại và nó đang còn tiềm ẩn đâu đó. Dù gì đi nữa chúng ta hãy kiên trì và tìm tòi thêm những bảo vật quí giá còn đang lưu lạc trong những lớp tro tàn bụi phủ bị chìm đắm trong quên lãng. Cho đến bây giờ bảo kiếm này vẫn còn mơ hồ vì chưa ai biết được nó có từ thời nào. Tôi hy vọng những nhà nghiên cứu khảo cổ một ngày nào đó sẽ biết rõ ràng hơn chi tiết về nguồn gốc của bảo kiếm.

Theo Vijaya số 3

Múa dân gian Chăm

Phan Quốc Anh

Lời mở

kate3Nghệ thuật dân gian của mỗi dân tộc được coi như những viên ngọc đã được sàng lọc, chau chuốt lâu đời qua thời gian, trong không gian và mang đậm tính bản sắc. Đối với dân tộc Chăm cũng vậy, nghệ thuật dân gian Chăm giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng người Chăm. Vì vậy, làm tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân gian Chăm là một trong những biện pháp có hiệu quả góp phần ổn định đời sống xã hội Chăm.
Continue reading

HỆ THỐNG CHỦ LỄ CỦA NGƯỜI CHĂM BÀLAMÔN Ở NINH THUẬN

HỆ THỐNG CHỦ LỄ CỦA NGƯỜI CHĂM BÀLAMÔN Ở NINH THUẬN

TS. Phan Quốc Anh

Sở Văn hóa, du lịch và thể thao Bình Thuận

Theo báo cáo của Ban dân tộc miền núi tỉnh Ninh Thuận năm 2002,  ở Ninh Thuận có 61.359 người Chăm, cư trú tương đối tập trung ở 22 làng thuộc 12 xã ở 4 huyện, thị xã, đông nhất là ở huyện Ninh Phước với 48.137 người, ở huyện Ninh Hải có 10.319 người, ở huyện Ninh Sơn có 1.527 người, ở thị xã Phan Rang – Tháp Chàm có 1.376 người.

1. Đôi nét về người Chăm ở Ninh Thuận

1.1. Dân số, tôn giáo và địa bàn cư trú.

Trừ các tôn giáo mới du nhập sau này với số lượng không lớn, người Chăm ở Ninh Thuận hiện nay theo hai tôn giáo chính là Bàlamôn (ấn Độ giáo) và Bàni (Hồi giáo bản địa hóa). Ngoài ra còn có một bộ phận người Chăm theo đạo Islam nhưng không nhiều. Tên gọi thì như vậy, nhưng, đã từ lâu, hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni tồn tại độc lập, không có mối quan hệ với nước ngoài và, qua quá trình lịch sử, cả hai tôn giáo này đã bị bản địa hóa, tạo cho mình một kiểu tôn giáo địa phương.

Người Chăm theo đạo Bàlamôn có khoảng 38.000 người, cư trú ở 16 làng, trong đó có một làng sống xen cả Bàlamôn lẫn Bàni (làng Phú Nhuận). Người Chăm theo đạo Bàni có khoảng 21.000 người, cư trú ở 7 làng, trong đó có một số làng sống xen cả  người Chăm theo Bàni và người Chăm theo Islam. Người Chăm theo Hồi giáo mới (Islam) có khoảng 2.000 người, theo Công giáo và Tin lành khoảng 700 người. Qua quá trình điền dã, nghiên cứu, chúng tôi thấy bản thân người Chăm ở Ninh Thuận không tự gọi là người Chăm theo đạo Bàlamôn hay đạo Bàni mà tự gọi người Chăm Bàlamôn là Ahier, người Chăm Bà ni là awal. Trong dân gian thường gọi người theo Bàlamôn là “Chăm”, người Chăm theo Hồi giáo cũ là Bìnì (Bàni), trong văn học dân gian Chăm có trường ca “Cam – Bini” và trường ca “Bini – Cam”. Về vấn đề tên gọi thế nào cho đúng đối với người Chăm Bàlamôn là một vấn đề khoa học cần được tiếp tục nghiên cứu kỹ. Theo chúng tôi, nếu đã gọi người Chăm theo Hồi giáo bị bản địa hóa là Bàni, có nghĩa là Hồi giáo du nhập vào trong cộng đồng người Chăm từ sau thế kỷ X, đã biến thành một thứ tôn giáo địa phương thì phải gọi người Chăm theo đạo Bàlamôn là “Chăm Ahier” mới đúng. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng, đạo Bàlamôn có nguồn gốc ấn Độ đã thực sự trở thành một thứ tôn giáo địa phương. Tuy nhiên, các tài liệu khoa học từ xưa đến nay đều gọi là người Chăm Ahier là người Chăm Bàlamôn.

1.2. Người Chăm Bàlàmôn ở Ninh Thuận

Gần 38.000 người Chăm Bàlamôn sống tập trung ở 16 làng, chủ yếu là ở huyện Ninh Phước và chia theo 3 khu vực đền tháp thờ tự, được phân chia theo khu vực cộng đồng tôn giáo. Mỗi khu vực cộng đồng tôn giáo lại có hệ thống chức sắc chịu trách nhiệm về cộng đồng tín đồ của khu vực mình cai quản. Hiện nay ở Ninh Thuận có 3 vị cả sư pô xà (Pô dhia – chữ Pô: ngài, thần, vị, đấng) phụ trách 3 khu vực cộng đồng tín đồ và chịu trách nhiệm cúng lễ ở 3 khu vực đền tháp như sau:+ Khu vực tháp Pôrômê (Pô Rame – làng Hậu Sanh) có 6 làng thuộc huyện Ninh Phước gồm: Hậu Sanh, Hiếu Thiện, Vụ Bổn, Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, Phước Lập, khu vực này do cả sư pô xà Hán Bằng phụ trách.+ Khu vực đền thờ “mẹ xứ sở” Pô Inư Nưgar (Pô Inư Nưgar – Inư là mẹ, mẫu, Nưgar là xứ sở – ở làng Hữu Đức) gồm 3 làng Hữu Đức, Như Bình và Bầu Trúc, do cả sư  pô xà Hải Quý phụ trách.+ Khu vực tháp Pô Klongirai (Pô Klongirai – Phan Rang) có 7 làng gồm: Hiếu Lễ, Chắt Thường, Phú Nhuận, Hoài Trung, Phước Đồng và Thành ý do cả sư (Pô xà) Vạn Tạ phụ trách.Ngoài ra, còn một khu vực đền Pô Bin Thuôn (Pô Bin Thuơr – thôn Bĩnh Nghĩa, xã Phương Hải, huyện Ninh Hải) chỉ có một làng người Chăm theo Bàlàmôn nhưng không có chức sắc Bàlamôn. Mọi hoạt động tôn giáo đều do Ban phong tục của làng đảm nhiệm. Mỗi khi có những nghi lễ cần đến chức sắc Bàlamôn làm chủ lễ đều phải mời các chức sắc từ khu vực tháp Pôklongirai. Vì vậy, có thể quy Bĩnh Nghĩa về khu vực tôn giáo của Tháp Pôklongirai (xem bản đồ phụ lục 3).Người Chăm ở Ninh Thuận còn gọi những người theo đạo Bàlamôn là “Cam Jat”(đọc là Chăm rặt). Trong tiếng Chăm, chữ Jat có nghĩa là gốc, sự thật [1, tr.219]. Người Chăm còn gọi người Chăm theo Bàlamôn là “Chăm” (Cam, để phân biệt với Bà Ni), và coi Chăm Jat là Chăm gốc. Bàlamôn giáo du nhập vào Champa rất sớm, trư­ớc khi lập vư­ơng quốc Lâm ấp, muộn nhất là đầu công nguyên và có thể còn trước đó nữa. Bốn bia ký bằng chữ Phạn có niên đại thế kỷ VII đ­ược tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên ở triều đại Bhadresvaravamin, ba trong bốn bia ký đó ghi nhận lãnh địa dành cho vị thần này. Còn bia ký Mỹ Sơn thì nói đến sự thành kính dành cho Mahesvara, Uma, Brahma, Vishnu. Đến thế kỷ thứ VII, ấn Độ giáo mà chủ yếu là Shiva giáo đã trở thành tôn giáo chính thống. Từ đây hình thành khu di tích Mỹ Sơn. Từ thời Lâm ấp đến Hoàn V­ương (từ thế kỷ II đến thế kỷ IX), đạo Bàlamôn đã hiện diện và luôn luôn đ­ược coi trọng. Các bia ký giai đoạn này đều chứng minh tầm quan trọng của Shiva: “Đáng kính trọng hơn cả Brahma, Vishnu, Indra, Surya, Asura, hơn những vị Bàlamôn và hơn những Rsi, các vua chúa” [2, tr.72].Theo nhiều nhà nghiên cứu Champa thì Bàlamôn giáo đã đến Champa trước cả Phật giáo. Sử gia D.Hall có nhận xét như­ sau về tôn giáo vào Champa: Bàlamôn giáo là tôn giáo của giai cấp quý tộc, nên không thu được lớp bình dân đại chúng. Tập quán bản xứ vẫn tiếp tục phát triển song song với tập quán ấn Độ. Mãi đến mấy thế kỷ sau, khi Phật giáo tiểu thừa Theravada và Hồi giáo nhập địa và được truyền bá như­ một tôn giáo bình dân, những ảnh hưởng ngoại lai này mới thật sự va chạm với nếp sống người dân quê. Đến khi ấy, cả hai tôn giáo mới hoà mình vào nền văn hóa bản xứ rồi biến thể sâu đậm… [dẫn theo 3, tr. 110].Khi Hồi giáo du nhập vào Champa (khoảng trư­ớc sau thế kỷ X), xảy ra quá trình cạnh tranh và xung đột tôn giáo, gây mất ổn định trong một thời gian dài giữa nội bộ cộng đồng tộc người Chăm. Người Chăm theo Hồi giáo Bàni bị coi là người ngoài, thậm chí người Chăm cho rằng, thà kết hôn với người khác dân tộc còn hơn là kết hôn với ngư­ời Bàni. Có lẽ vì thế mà ngư­ời Chăm Bàlamôn tự gọi là “Chăm”. Sự xung đột tôn giáo kéo dài này đã kìm hãm sự phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến thế lực của Champa.  Để dung hoà và đoàn kết hai tôn giáo, không rõ từ bao giờ và do ai khởi xướng, người Chăm đã vận dụng quan niệm “nhất thể lưỡng hợp”, coi cộng đồng ng­ười Chăm theo Bàlamôn là dư­ơng tính (Ahier), theo Bàni là âm tính (Awal). Với quan niệm nhất thể lưỡng hợp thì ngư­ời theo hai tôn giáo này tuy hai nh­ưng là một, gắn bó với nhau, trong âm có dư­ơng và trong dương có âm. Quan niệm này được nhất quán trong nội dung cũng như hình thức nghi lễ, trong cả trang phục các vị chức sắc của hai tôn giáo. Người Chăm Bàlamôn theo tín ng­ưỡng đa thần của ấn Độ giáo, còn người Chăm Bàni thờ nhất thần là thánh Ala, người Chăm gọi là Pô Âu Loá và thiên sứ Môhamét. Tuy nhiên, ngư­ời Chăm Bàni ngày nay đã thờ những vị thần chung của cả cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận như­ mẹ xứ sở Pô In­ư Nưgar, Pô Yang – Amư và các vị nhân thần Chăm.Người Chăm Bàlamôn ngày nay sinh sống ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Ngoài 38.000 người Chăm ở Ninh Thuận, hiện còn có một bộ phận khoảng 15.000 người sống ở huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Về cơ bản, văn hóa của họ tương đồng với văn hóa của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận.

2. Hệ thống chủ lễ trong các nghi lễ của người Chăm Bàlàmôn

Văn hóa truyền thống của người Chăm chứa đựng nhiều tầng lớp, trong đó có những lớp văn hóa mang truyền thống bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam á và về sau, người Chăm tiếp nhận các tôn giáo. Trải qua quá trình bản địa hóa, những lớp văn hóa này đã hòa trộn vào nhau và trở thành văn hóa truyền thống chung của người Chăm. Đối với người Chăm Bàlàmôn, theo chúng tôi, mặc dù đã có một quá trình bản địa hóa lâu đời, không còn đậm giáo lý, giáo luật, hệ thống thần linh cũng đã “thay tên đổi họ” nhưng dấu ấn Bàlamôn giáo vẫn còn khá đậm trong lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm Bàlàmôn, trong đó có hệ thống chủ lễ, bao gồm các thầy chủ lễ dân gian và hệ thống chức sắc, tăng lữ Pà xế. Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận, hiện nay ngư­ời Chăm có hơn một trăm nghi lễ được tổ chức quanh năm. Hệ thống nghi lễ ấy diễn ra vừa phong phú vừa phức tạp. Trong đó, các thầy chủ lễ dân gian và hệ thống chức sắc tôn giáo đóng một vài trò quan trọng.Hệ thống lễ hội dân gian của người Chăm Bàlàmôn rất phong phú, đa dạng. Trong các nghi lễ Chăm đều có sự pha trộn giữa lễ thức dân gian và nghi lễ tôn giáo. Vì vậy, hệ thống chủ lễ cũng có sự pha trộn, nhiều khi rất khó phân biệt: trong một số nghi thức mang tính tôn giáo lại có sự tham gia của các chức sắc dân gian, trong một số lễ thức dân gian lại có sự tham gia của chức sắc tôn giáo.

2.1. Các “thầy” chủ lễ dân gian

Khác với chức sắc tôn giáo, các thầy chủ lễ dân gian là những ngư­ời không chịu sự chi phối của tôn giáo. Để trở thành những chủ lễ dân gian đều phải trải qua lễ tôn chức. Trong những nghi lễ thuộc tín ngư­ỡng nông nghiệp, ngoài sự tham gia điều hành của các chức sắc tôn giáo phải có các ông thầy dân gian như­ ông cai đập (Hamu la). Trong hệ thống lễ hội Rija phải có sự tham gia của các ông “thầy vỗ” chuyên đánh trống paranư­ng (Mưduôn), thầy bóng múa lên đồng (On kaingphụ lục ảnh 18), bà bóng dòng tộc đồng thời là ngư­ời giữ “chiết a tâu” của dòng họ, bà bóng khu vực tôn giáo. Mỗi dòng họ đều phải có bà bóng cho riêng mình. Bà bóng dòng họ được tuyển chọn kỹ l­ưỡng, phải là người có địa vị, có hiểu biết, đư­ợc vị nể trong dòng họ. Lễ tôn chức bà bóng thường được kết hợp trong lễ múa lớn (Rija praung), được thể hiện rõ nhất trong đêm khai lễ “Rija xoa”, bà bóng phải chịu lễ tẩy uế, nằm để hóa thân, đầu thai và nhập linh suốt đêm. Trong lễ này, bà bóng phải “học” múa (học tượng trư­ng, thực chất là đã phải học các điệu múa bóng từ trư­ớc) do một ông thầy và bà bóng cũ chỉ bảo.Trong các nghi lễ cúng cầu phúc, trừ tà ma, chữa bệnh và trong nghi lễ tang ma v.v… phải có ông thầy pháp (Gru tiap bhut) hoặc ông thầy cúng (Gru urang). Các ông thầy này phải học thuộc hệ thống ma thuật bùa chú và văn tế tự rất phức tạp và có một cuộc sống kiêng cữ rất nghiêm ngặt, có thầy còn tu khổ hạnh hơn cả các chức sắc tôn giáo. Họ được bà con Chăm kính trọng, vị nể, nhiều ông thầy rất “cao tay ấn”.Trong các thầy chủ lễ dân gian, có một đội ngũ nghệ nhân tài giỏi và đều có mặt trong các nghi lễ Chăm. Ông “thầy vỗ” (Mư­duôn – đọc là mư­ tùn) vừa đánh trống Paranư­ng vừa hát lễ, ông kéo đàn Kanhi (Kadhar – đọc là ka thành) và những ngư­ời hát lễ, nghệ nhân đánh trống ghi năng (On Toong – grù ginơn), nghệ nhân thổi kèn Saranai (On Yu). Trong lễ tang phải có ông “hăng” (On Hơng), là người trang trí các nhà lễ, nhà hoả táng và các hoa văn, biểu tượng, bùa chú cho tín ngưỡng dân gian. Theo số liệu thống kê của Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận, hiện nay ở Ninh Thuận có 22 thầy cúng đuổi tà ma (Gru tiap bhut, gru urang), 13 thầy kéo đàn kanhi, 9 thầy bóng, 3 bà bóng khu vực tôn giáo (Muk pajau), 36 “thầy vỗ” trống Paranưng. Ngoài ra, mỗi dòng tộc lại có một bà bóng (Muk Rija) cho riêng dòng họ mình.Trong lễ nhập kút, ông kéo đàn kanhi và bà bóng (Muk pajau) luôn đi cặp với nhau, như­ là một biểu hiện âm – dư­ơng. Ông kéo đàn và bà bóng có hai cấp trư­ởng và thứ.Một số thầy chủ lễ dân gian phải trải qua các lễ thụ chức như­ ông kéo đàn chính (Kadhar gru – là ngư­ời đã phải trải qua lễ “lăng đao” trong nghi lễ “tế trâu đen” của dòng tộc). Bà bóng cấp trưởng cũng phải qua lễ chém trâu và phải qua các nghi thức tẩy uế, nhập linh trong lễ Rija. Tất cả các chức sắc dân gian, mỗi năm phải hiến tế cho thần Pô âu Loá (Ppo aw loa) một con gà trắng. Chủ lễ hiến tế phải là một chức sắc Bàni.

2.2. Hệ thống chức sắc Bàlamôn

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tôn giáo Bàlamôn hiện nay ở người Chăm không còn hội đủ những yếu tố của một tôn giáo chính thống, hệ thống giáo lý, giáo luật, hệ thống giáo chủ và tín đồ không rõ ràng [4] và ng­ười Chăm theo đạo Bàlàmôn không tự gọi mình là ng­ười Chăm Bàlamôn mà gọi là Chăm Ahiêr. Nhưng, mặc dù đã bị bản địa hóa khá mạnh, chức sắc, tăng lữ Bàlamôn và nhiệm vụ của họ vẫn được duy trì một cách có hệ thống. Trong Bàlamôn giáo: “đẳng cấp Bàlamôn là đẳng cấp cao nhất, được sinh ra từ miệng Sanura (Manu) “Bàlamôn được coi là thần trên mặt đất”, chủ trì chăm lo việc cúng bái, thao túng đời sống tinh thần thời cổ đại và trung thế kỷ” [5, tr.193]. Hiện nay, các tăng lữ pà xế (passeh) vẫn nắm giữ phần hồn của cộng đồng người Chăm Bàlamôn.Xã hội Bàlamôn vốn là xã hội phân biệt đẳng cấp, được hình thành nên để bảo vệ cho quyền lợi của đẳng cấp tu sĩ Bàlamôn. Trong xã hội của người Chăm Bàlamôn hiện nay, tuy sự phân biệt đẳng cấp đã bị phai mờ như­ng qua nghiên cứu nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlàmôn, chúng tôi thấy sự phân biệt ấy vẫn tồn tại. Đó là sự phân biệt đẳng cấp theo dòng tộc. Một dòng tộc trư­ớc đây thuộc đẳng cấp nào thì nay vẫn bị quy định nghi lễ tang ma theo hình thức của đẳng cấp đó. Đẳng cấp cao nhất vẫn là đẳng cấp của tăng lữ Bàlamôn. Cơ cấu và thiết chế xã hội Chăm trư­ớc đây đã từng chi phối bốn tầng lớp xã hội theo giáo lý Bàlamôn. Theo lời văn bia Mỹ Sơn thì dư­ới đời vua Jaya Indravarman (1088) xã hội Chăm có bốn đẳng cấp theo hệ thống đẳng cấp Bàlamôn ấn Độ [6, tr. 54-55] như sau:.

– Brahman         :   Tầng lớp tu sĩ, tăng lữ Bàlamôn

– Ksyattriya       :   Tầng lớp quý tộc, vương phái, võ sỹ.

– Vaicya            :   Tầng lớp bình dân.

– Sudra              :   Cùng đinh, nô lệ.

Ngày nay, trong xã hội Chăm vẫn còn phân biệt các đẳng cấp như trên nhưng tên gọi có khác.

– Đẳng cấp tu sỹ Bàlamôn:         – Halơw jăn­ưng

– Đẳng cấp quý tộc:                    – Takai gai.

– Đẳng cấp bình dân:      – Bal liwa pănliua, kulit

– Đẳng cấp nô lệ, tôi tớ: – Halun halăk, halun klor.

Trong hệ thống chức sắc Bàlamôn có hai tầng lớp, hệ thống các chức sắc tu sỹ pà xế (passeh) và các chức sắc dân gian. Tu sĩ pà xế là những chức sắc tôn giáo Bàlamôn. Tầng lớp này có địa vị cao nhất trong xã hội, được coi là những người trí thức, họ biết chữ Chăm, lưu giữ các sách cổ Chăm qui định về các nghi thức hành lễ, hiểu biết tập tục, truyền bá và thực hiện các nghi thức tôn giáo. Về mặt xã hội, họ thuộc tầng lớp quí tộc cũ. Tu sĩ pà xế đ­ược duy trì trong xã hội Chăm theo tục “cha truyền con nối”. Những người không thuộc dòng dõi chức sắc thì dù có giỏi mấy cũng không đư­ợc vào hàng ngũ này. Đây là một dấu ấn đậm nét của giáo lý Bàlamôn cổ đại ấn Độ còn đọng lại trong cộng đồng ngư­ời Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận. Hệ thống tu sĩ pà xế được sắp xếp theo 5 cấp từ thấp đến cao như­ sau: Cấp thấp nhất là thầy passeh Đung akau. Đây là chức sắc mới nhập môn, phải học chữ Chăm, học các giáo lý, giáo luật và bắt đầu để tóc dài, búi tó.Cấp thứ hai là thầy passeh Liah. Là thầy pà xế khi hội đủ điều kiện được làm lễ phong chức từ  passeh Đung a kau lên.Cấp thứ ba là passeh Pahuăh (Pahóa – thầy cho ăn), được làm lễ phong chức từ passeh Liah lên, phải là người có thâm niên, và là người duy nhất đư­ợc làm “lễ cho ăn” trong tang ma.Cấp thứ tư­ là thầy passeh Tapah. Đây là những tu sĩ đã đạt đến độ thoát tục, phải qua những điều kiện rất khắt khe mới được phong chức và phải trải qua ba giai đoạn: Tapahkatat, Tapahkađa và Tapahkađôi. (Đây là chức danh phó cả sư­. Khi chọn ngư­ời để phong chức cả sư, trư­ớc hết phải chọn Tapahkađôi).Cao nhất là chức cả sư­ Podhia (Pôxà). Đây là người có quyền tối cao trong tôn giáo Bàlamôn. ở tỉnh Ninh Thuận chia làm ba khu vực tôn giáo Bàlamôn nên bao giờ cũng chỉ có ba thầy Pôxà. Các vị cả sư­ cho biết, trước đây, tuy chia ba khu vực tôn giáo nhưng vị cả sư­ của khu vực tháp Pô Klongirai là lớn nhất, gọi là cả sư Grù Hunh (thuộc dương), là ngư­ời quyết định các lễ phong chức pà xế, ông thầy Grù Hunh không được trực tiếp đi làm các chủ lễ mà chỉ ở nhà tu hạnh và chỉ đạo, là ngư­ời quyết định ngày tháng, giờ giấc và quy trình làm lễ. Ông cả sư­ khu vực đền Pô In­ Nư­gar gọi là Grù Băng xài (thuộc âm) là ngư­ời do ông Grù hunh phân công thực hiện các nghi lễ, trừ lễ nhập kút. Ông cả sư khu vực tháp Pô Rômê gọi là Grù Atằm, là ngư­ời đư­ợc làm chủ các lễ nhập kút. Như­ng ngày nay, những quy định trên đây không còn hiệu lực nữa.Để nhập vào hàng ngũ pà xế và lên đến chức cả sư­, phải thực hiện đủ các lễ tôn chức như sau:-Lễ nhập đạo (dung akau), gọi là lễ xông miệng học chữ Chăm.-Lễ lên cấp pà xế liah, giai đoạn học kinh kệ và học các nghi thức hành lễ.-Lễ tôn chức tu sĩ chính thức (puah)-Lễ tôn chức cả sư hoặc phó cả sư­ (popaik hoặc podhia).Hiện nay, đến các làng Chăm Bàlamôn có thể nhận biết được đội ngũ chức sắc pà xế. Bởi vì họ luôn phải mang trang phục chức sắc của mình và từ thầy passeh Pahuăh trở lên đi đâu cũng mang theo cây gậy thần. Trang phục và đồ trang sức của các thầy khác nhau theo từng cấp pà xế, nh­ưng có những điểm chung là tóc dài búi tó, vì trong quan niệm âm – dương Chăm, tôn giáo Bàlamôn là Ahier thuộc d­ương, nhưng theo thuyết trong dương có âm, các thầy pà xế vừa là đàn bà (để tóc), lại đeo biểu tư­ợng của đàn ông (dương). Tôn giáo Bàni là Awal thuộc âm nhưng ông thầy Char lại cạo trọc đầu và đeo biểu tư­ợng yoni (âm). Trên đầu các chức sắc Bàni luôn đội nón bọc vải màu trắng, có vành rộng tượng trư­ng cho bầu trời, không bao giờ đi giầy, chỉ đi dép nhựa hoặc đi chân đất. Ngày x­a các thầy thường đi loại dép cổ làm bằng da trâu. Tu sĩ pà xế Bàlamôn được quyền lấy vợ, sinh con như­ng phải tuân thủ theo những quy tắc rất khắt khe. Để tu hành, các thầy phải kiêng cữ rất nhiều thứ:- Không được ăn thịt những con vật đẻ ra con. – Không ăn thịt những con vật gắn với truyền thuyết, truyện cổ Chăm và tín ngư­ỡng thờ súc vật như­ lư­ơn, ếch, giông, cá trê, thỏ, hoẵng, không ăn những con vật chết yểu, chết do bị thương, không được ăn những loại hoa quả như chuối hột, đu đủ, đậu hạt, quả sung, bí đao, rau sam, rau dền.- Không uống các loại nước có chất lên men, khi đang hành lễ cũng chỉ được uống rượu tư­ợng trư­ng. – Không đư­ợc đến dự các nghi lễ thuộc “cõi sống” như­ lễ sinh đẻ, lễ cưới, lễ múa (Rija). – Khi đi tiểu tiện phải vén váy ngồi xổm như đàn bà (bởi các thầy thuộc âm), khi đi đại tiện phải cởi áo trùm đầu. – Đi tắm phải xem ngày. Ngày rằm, mồng một theo âm lịch, ngày thứ hai, thứ sáu trong tuần không được ngủ với vợ. Trư­ớc khi ăn, trư­ớc khi ngủ đều phải đọc kinh. – Khi ngủ không được quay đầu hư­ớng nam vì ngư­ời Chăm Bàlamôn coi hướng nam là “hướng chết” nên khi có ngư­ời chết phải đặt thi hài người chết quay đầu hướng nam. Ngược lại, các chức sắc Hồi giáo Bàni kiêng không quay đầu hướng bắc. Ngoài ra, các thầy pà xế còn phải kiêng cữ rất nhiều ở những lĩnh vực khác. Trong phòng ở của các thầy luôn có chiết (giỏ) đựng rất nhiều các sách viết bằng chữ Chăm cổ h­ướng dẫn các qui trình hành lễ, các bài văn khấn, hình vẽ các bùa, các câu thần chú và bàn tổ cúng thần. Mỗi lần hành lễ, phải làm lễ cúng hạ chiết sách. Tu sỹ pà xế mặc sắc phục riêng màu trắng, búi tóc ở đỉnh đầu. Sự phân biệt các cấp pà xế dựa vào hoa văn thổ cẩm đính trên váy và khăn. Hiện nay tu sỹ pà xế ở cộng đồng Chăm Bàlamôn có 37 vị. Trong đó có ba vị cả sư pô xà cai quản ba khu vực tín đồ và đảm trách các nghi lễ của ba khu vực đền tháp. Nếu một cả sư­ ở khu vực nào qua đời thì ở đó chọn một phó cả sư lên thay thế, nhưng phải được sự đồng tình của cộng đồng ngư­ời Chăm ở khu vực đó.Trong các nghi lễ vòng đời cũng như­ trong các nghi lễ cúng bái, luôn có sự hiện diện của các chức sắc tăng lữ Bàlamôn và các thầy cúng, thầy pháp, các nghệ nhân kéo đàn, đánh trống, hát lễ, ông bóng, bà bóng. Những người này đều đ­ược gọi là các thầy chủ lễ, được phân công, phân nhiệm một cách rõ ràng, bài bản. Trước khi hành lễ đều phải làm lễ thức tẩy uế cúng thần linh.Hệ thống chức sắc và các thầy chủ lễ dân gian được chia làm năm thành phần như­ sau:1.       Các tăng lữ pà xế, gồm 5 cấp bậc (như đã nêu ở trên).2.       Thầy kéo đàn kanhi (kadhar) và bà bóng khu vực tôn giáo (muk pajau)3.       Ông “thầy vỗ” trống paran­ưng (m­duôn); ông thầy múa bóng (on kaing)4.       Thầy cúng (gru urang); thầy pháp (grù tiao pbuh)5.       Những thầy hát khấn, đọc thơ dân gian (on dauh).Trong số các thầy trên, chỉ có các tăng lữ pà xế bắt buộc phải mặc trang phục riêng theo cấp bậc chức sắc của mình và luôn phải mang gậy thần. Các thầy chủ lễ dân gian khi hành lễ đều phải mặc trang phục truyền thống, khăn quấn đầu luôn thắt nút về phía bên phải đầu.Với những gì trình bày ở trên, chúng tôi thấy, mặc dù ngư­ời Chăm Bàlamôn đã từ rất lâu không tiếp xúc với đạo Bàlamôn trên thế giới, tầng lớp tu sĩ Bàlamôn đã có nhiều biến đổi nhưng về cốt lõi đẳng cấp, về sự nối truyền dòng dõi, sự tu luyện, sự kính trọng của tín đồ, về nhiệm vụ tế tự của họ vẫn có nhiều điểm tồn tại nh­ thời kỳ Bàlamôn cổ đại: ở thời kỳ Phạn thư­, đã xuất hiện gia tộc Bàlamôn tế tự truyền đời. “Phuốc Vêđa gọi họ là “thần của nhân gian”. Họ không đơn thuần là ng­ười chỉ đạo tôn giáo, cũng là giai tầng trí thức đương thời. Họ ­hưởng thụ các loại đặc quyền: nhận của bố thí, đ­ược miễn sưu thuế, khi phạm tội nặng có thể được miễn tội chết, bản thân họ và vợ con và bò của họ đều được công chúng kính lễ [5, tr. 181].

3. Thực trạng về chủ lễ trong các nghi lễ của người Chăm Bàlàmôn Trong giai đoạn phát triển, giao lưu, hòa nhập hiện nay, tôn giáo Bàlàmôn đang gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì lễ nghi tín ngưỡng. Một trong những nguyên nhân cơ bản là thực trạng về việc duy trì hệ thống chủ lễ dân gian và các chức sắc Bàlàmôn.

3.1. Thực trạng về các thầy chủ lễ dân gian

Theo nhu cầu của hệ thống nghi lễ dày đặc quanh năm của người Chăm Bàlàmôn, nếu không có sự kế thừa, đội ngũ các ông thầy ngày càng thiếu vắng. Một số trí thức người Chăm cho rằng hiện nay với số lượng 22 thầy cúng đuổi tà ma (Gru tiap bhut, gru urang), 13 thầy kéo đàn kanhi, 9 thầy bóng, 3 bà bóng khu vực tôn giáo (Muk pajau), 36 “thầy vỗ” trống Paranưng trong cộng đồng 38.000 người Chăm theo Bàlàmôn là không đủ. Đến thời điểm diễn ra đồng loạt các lễ nghi nông nghiệp và các nghi lễ cộng đồng, nghi lễ dòng tộc, các thầy phải “chạy xô” rất vất vả. Vì vậy, việc truyền dạy nghề là việc làm thường xuyên. Mặc dù các thầy chủ lễ dân gian không bắt buộc phải cha truyền con nối như các tăng lữ, nhưng thường việc này vẫn diễn ra trong các gia đình Chăm, việc cha truyền nghề làm chủ lễ cho con vẫn là phổ biến. Tuy nhiên, để trở thành một ông thầy, Ngoài những tiêu chuần về đạo đức, có gia đình trọn vẹn (một vợ một chồng và có con), người học phải thật sự yêu nghề, có tâm đức và ngoài ra phải có năng khiếu. Muốn trở thành một ông Ka thành (Kadhar) kéo đàn ka nhi hay ông vỗ trống Paranưng (Mưduon), người học phải có năng khiếu âm nhạc và phải có giọng hát tốt, muốn trở thành một ông thầy cúng phải học thuộc hàng trăm hình vẽ bùa phép và hàng trăm bài hát cúng lễ, muốn trở thành  một ông Hăng (hơng) chuyên trang trí lễ tang phải có năng khiêú về hội họa và cũng phải học các bài cúng khấn xin vẽ hoa văn, bùa phép, muốn trở thành ông bóng, bà bóng, ngoài những tiêu chuẩn khắt khe về đạo đức, còn phải có năng khiêú múa và năng lực tiếp xúc với thần linh v.v…Tâm lý chung hiện nay của thanh niên Chăm, nhất là số có học vấn là không muốn trở thành những ông thầy cúng, thầy pháp. Bên cạnh đó, vấn đề thù lao, đãi ngộ cho số người tham gia làm chủ lễ không rõ ràng, đa số là trông đợi vào sự hảo tâm của các gia đình làm lễ, dẫn đến một tâm lý không thoải mái. Đây là một trong những khó khăn mà cộng đồng người Chăm Bàlàmôn đang phải đối phó. Nếu cộng đồng người Chăm không có biện pháp khắc phục, sự thiếu vắng đội ngũ làm chủ lễ sẽ dẫn đến sự thất truyền của một loại hình nghề chứa đựng phong tục tập quán, lễ nghi tín ngưỡng Chăm, dẫn đến sự đơn giản hoá các nghi lễ truyền thống, từ đó dẫn đến sự thất truyền, mai một các yếu tố văn hóa truyền thống của người Chăm Bàlàmôn.

3.2. Thực trạng về hệ thống chức sắc tôn giáo Bàlàmôn

Dân tộc Chăm vốn có một nền văn hóa cổ truyền phong phú, đa dạng được hình thành từ lâu đời. Nền văn hóa ấy là sự chọn lọc, kế thừa, hoà trộn giữa những yếu tố nội sinh và những yếu tố ngoại sinh. Người Chăm Bàlàmôn được coi là “Chăm gốc” và trên thực tế đang là những chủ nhân lưu giữ vốn văn hóa truyền thống ấy. Chính các tôn giáo phong phú, đa dạng đã góp phần tạo nên sắc thái văn hóa Chăm. Những lễ nghi, tín ngưỡng cùng với niềm tin có tính chất tôn giáo Bàlàmôn đang là cơ sở quan trọng để bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống. Nếu những lễ nghi, tín ngưỡng và niềm tin ấy mất đi, chắc chắn kéo theo sự mất mát sắc thái văn hóa truyền thống.Trong giai đoạn phát triển, giao lưu, hòa nhập hiện nay, văn hóa cổ truyền thống các dân tộc đang nhanh chóng bị mai một. Văn hóa cổ truyền của người Chăm Bàlàmôn cũng không nằm ngoài quỹ đạo ấy. Những tôn giáo trong cộng đồng ng­ười Chăm hôm nay, trong đó có đạo Bàlàmôn, đang có những thực trạng cần phải giải quyết. Đó là:

Do sự thiếu một hội đồng chức sắc thống nhất và sự chia khu vực tôn giáo nên trong nội bộ mỗi tôn giáo, giữa các tôn giáo và cộng đồng ngư­ời Chăm có nhiều điểm không thống nhất, dẫn đến những mâu thuẫn mà cho đến nay chư­a giải quyết được. Để tiến hành các lễ hội cần có lịch pháp thống nhất nhưng mâu thuẫn về lịch pháp giữa các vùng Chăm đang là vấn đề nan giải. Thậm chí, có vùng lịch chênh nhau đến 2 tháng trong năm. Sự thiếu thống nhất về lịch pháp gây ra rất nhiều điều phiền toái, trước hết là nghi lễ cộng đồng, sau đó là các nghi lễ tộc họ và gia đình. Trong khi nơi này đang là ngày kiêng cữ thì nơi khác lại là ngày tốt và tổ chức lễ c­ưới, dù quan hệ mật thiết đến đâu, là bà con họ hàng cũng không dám đến dự. Hàng năm, vào dịp lễ hội Katê, các vị chức sắc Bàlamôn các vùng lại phải ngồi lại họp để thống nhất lịch, nhiều khi trở thành những cuộc tranh luận, cãi vã gay gắt.

Trong nội bộ tôn giáo Bàlamôn thư­ờng xảy ra sự tranh chấp chức cả sư (Po dhia). Đã từ xa xư­a, người Chăm Bàlamôn chia ra ba khu vực tôn giáo theo ba khu vực đền tháp, mỗi khu vực tôn giáo chỉ có duy nhất một vị cả s­ư trụ trì, riêng phó cả sư thì có từ 2 vị trở lên. Thông thường, khi cả sư­ mất đi thì phó cả thứ nhất – người tu hành lâu năm, có trình độ, hiểu biết kinh kệ, giáo lý, biết các nghi thức hành lễ, có đạo đức, đầy đủ vợ chồng, gia đình yên ổn và có dòng dõi tăng lữ thì được kế vị cả sư. Như­ng nhiều trư­ờng hợp cạnh tranh đã xảy ra trong những năm 1972, 1993 [4, tr.23] mà nguyên nhân là chưa có sự thống nhất về việc lựa chọn Cả sư giữa các làng Chăm. Sự tranh chấp cả sư ở đây không phải là vấn đề tranh giành quyền lợi cá nhân cả sư mà do các khu vực tôn giáo tranh giành cho khu vực mình. Các cuộc tranh chấp đã lôi kéo nhiều người tham gia gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến đời sống tín ngưỡng, an ninh chính trị của cộng đồng Chăm và chính quyền phải can thiệp theo luật pháp, trên cơ sở vận động bà con bàn bạc để chọn ra cho mình vị cả sư­ để duy trì sinh hoạt tín ngưỡng. Phía tôn giáo Bàni cũng thư­ờng xảy ra những vụ tranh chấp sư cả như những năm 1960, năm 1998. Những thực trạng về tôn giáo tín ngưỡng Chăm đang là những kìm hãm sự phát triển.

Một thực trạng khác lại mâu thuẫn với thực trạng tranh chấp nói trên là với xu hướng phát triển hiện nay, càng ngày càng ít người muốn đảm nhận nhiệm vụ nắm giữ phần hồn này. Đặc biệt là những chức thấp hơn cả sư lại càng ít người muốn làm. Lớp trẻ hiện nay, trong đó có các thế hệ con cháu các chức sắc pà xế đã không còn mặn mòi với truyền thống cha truyền con nối như trước đây nữa. Nhiều người đã học hành đỗ đạt và đi làm các ngành nghề trong xã hội, có những người đã trở thành cán bộ khoa học, cán bộ quản lý của Nhà nước. Vì vậy, nguy cơ thiếu vắng các chủ lễ dân gian và các chức sắc tôn giáo của cộng đồng người Chăm Bàlàmôn trong một tương lai gần là một thực trạng cần giải quyết. Chúng tôi cho rằng, đây là một vấn đề cốt lõi trong việc bảo lưu văn hóa truyền thống của người Chăm nói chung, của người Chăm Bàlàmôn nói riêng.

Hiện nay ở vùng đồng bào Chăm đang diễn ra sự tranh giành ảnh hư­ởng tôn giáo và lôi kéo tín đồ giữa người Chăm Bàni và Chăm Islam là một vấn nạn thư­ờng xuyên xảy ra (chủ yếu ở những làng Chăm có tín đồ hai tôn giáo cùng sinh sống như ở làng Phư­ớc Nhơn và Văn Lâm) mà cho đến nay vẫn chư­a giải quyết được [4, tr. 23 – 31]. Vì vậy, cần có những giải pháp cấp bách để duy trì, phát triển các hoạt động của tôn giáo Chăm, trong đó có vấn đề duy trì hệ thống các thầy chủ lễ dân gian và các chức sắc tôn giáo.

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Đông Nam số 3 (66) 2004

Tài liệu tham khảo

  1. Bùi Khánh Thế (chủ biên), (1995), Từ điển Chăm – Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
  2. Ngô Văn Doanh (1994), Văn hóa Chăm Pa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
  3. Inrasara (1994), Văn học Chăm, Khái luận, văn tuyển, Nxb VHDT, Hà Nội.
  4. Trương Nghiệp Vũ (chủ nhiệm), (2002), Đề tài khoa học “Thực trạng tôn giáo tín ngưỡng Chăm”, Uỷ Ban Mặt trận tổ quốc tỉnh Ninh Thuận.
  5. Hoàng Tâm Xuyên (chủ biên), (1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, bản dịch của Dương Thu ái và Phùng Thị Huệ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  6. Mah Mod (1978), “Đặc điểm gia đình, thân tộc và xã hội của đồng bào Chàm”, Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, Tập 2, quyển II, Viện KHXH  tại thành phố Hồ Chí Minh.